Lịch sử Cừu_đuôi_ngắn_Bắc_Âu

Con cừu đầu tiên được đưa đến châu Âu do nông dân đầu được cho là đã bị cừu đuôi ngắn. Ban đầu, trong thời kỳ đồ đá, những con cừu đều nhỏ, đôi tráng, thay lông tự nhiên, cừu màu nâu, trong đó cừu Soay được cho là một đang bị diệt vong. Bằng đại đồ sắt, những đã bị thay thế trên toàn miền Bắc và miền tây châu Âu bằng cừu lớn hơn, vẫn có đuôi ngắn, nhưng với một lông cừu của kết cấu đồng bộ hơn, nhưng biến màu.

Cừu mang đến sau từ Nam Âu được đuôi dài, chủ yếu là màu trắng và lớn hơn nhiều. Những di dời các cừu đuôi ngắn ở hầu hết các khu vực, vào đầu thế kỷ 19, cừu đuôi ngắn vẫn chỉ ở các vùng xa xôi ở miền tây và phía bắc, bao gồm Scandinavia, vùng xung quanh biển Baltic, Ireland, Cornwall, Cao nguyên miền Tây, Scotland, và các đảo khác nhau. Cừu đuôi dài sau đó lan sang hầu hết các khu vực, vào thế kỷ 20 cừu đuôi ngắn đầu đã bị giới hạn đến đảo xa xôi và núi. Từ giữa thế kỷ 19 (và đặc biệt là sau khi vào giữa thế kỷ 20), một số các giống đuôi ngắn còn sống sót được công nhận là xứng đáng bảo tồn cho sự tham quan, vì lý do văn hóa, như vật trang trí, hoặc để bảo tồn sự đa dạng di truyền. Khoảng 30 giống hay các giống những con cừu tại tồn tại.